Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2016

Siêu âm thai kì

Siêu âm thai kì


Đa số bà bầu sẽ được siêu âm thai ít nhất 1 lần, trong giai đoạn mới phát hiện có thai hay lúc thai khoảng 20 tuần. Do đó, siêu âm thai là từ rất quen thuộc với các bà bầu. Siêu âm trong thai kì là một trong những dụng cụ hỗ trợ tầm soát những gì đang xảy ra với bà bầu cũng nhưsự tăng trưởng và phát triển của thai nhi.
Siêu âm thai trong tam cá nguyệt thứ nhất thường dùng để xác định có thai cũng như ngày dự sinh và xem thai có gì bất thường không. Thường nhất là siêu âm lúc 18-20 tuần. Nếu bà bầu có gì lo lắng cho thai nhi thì sẽ làm thêm siêu âm trong tam cá nguyệt cuối để đánh giá sự phát triển của bé. Đánh giá tình trạng của bé bao gồm kích cỡ, cân nặng, sự phát triển, thể tích ối.
Thỉnh thoảng, kết quả siêu âm ở tam cá nguyệt cuối sẽ giúp khuyến cáo là bé nên được chăm sóc ở phòng chăm sóc bé sơ sinh đặc biệt hơn là tiếp tục ở trong tử cung mẹ, hoặc là khuyến cáo bé có thể sinh non chứ không có gì nguy hại nếu tiếp tục thai kì.

Siêu âm thai kì là gì?

Máy siêu âm sẽ gửi sóng cao tần đi qua tử cung mẹ. Những sóng này cao hơn những gì tai người có thể nghe được do đó siêu âm thai là quá trình cần sự yên tĩnh. Sóng siêu âm được truyền từ đầu dò của máy siêu âm. Sóng siêu âm khi gặp thai nhi sẽ tạo ra những sóng dội ngược lại và tạo ra hình ảnh bé trên màn hình. Bạn hãy yên tâm là  siêu âm không gây đau hay gây hại cho cả bà bầu lẫn thai nhi. Những hình ảnh siêu âm phản ánh hình ảnh mới nhất của thai nhi. Không hề có khoảng chờ từ lúc siêu âm đến lúc thấy được hình ảnh của bé. Bạn có thể thấy bé di chuyển hay đạp tay chân. Hình ảnh rất động.
Khi đi siêu âm, bác sĩ sẽ thoa lên bụng bạn lớp gel ấm. Lớp gel này giúp giảm sự ngăn cách giữa da và đầu dò siêu âm, sóng siêu âm sẽ truyền tốt hơn.
Các mô cứng như xương sẽ cho hình màu trắng mà mô mềm thì màu xám. Dịch ối sẽ có màu đen vì sóng siêu âm đi qua dịch ối mà không tạo ra sóng phản âm ngược lại. Các tín hiệu sẽ được dịch lại và cho ra hình ảnh thông tin ta cần.

Bạn sẽ thấy được gì?

Bạn sẽ có thể thấy được bé, hình dạng bé và cả các cơ quan nội tạng của bé nữa, như là não, tim, phổi, thận, gan và dạ dày; ngoài ra còn có cột sống, tứ chi, cơ quan sinh dục và sự di chuyển của bé. Bác sĩ có thể sẽ in một tấm ảnh cho bạn đem về nhà nhưng bạn đừng mong đợi nó sẽ đẹp hay chi tiết như hình chụp nhé. Bạn cũng đừng mong đợi sẽ có cả một DVD quay hình ảnh bé. Các phòng khám hiện nay ít quay lại DVD vì sợ đây sẽ là bằng chứng nhỡ như có biến chứng nào của bé mà họ không phát hiện được. Nếu bạn muốn xin hình nào của bé thì cứ báo với bác sĩ siêu âm.Mang Thai -67-sieu Am Thai Ki -02(500x 500)

Liệu siêu âm thai có gây đau cho bà bầu hay thai nhi?

Siêu âm được làm thường quy ở khắp mọi nơi từ mấy chục năm trước. Có nhiều nghiên cứu cho thấy có thể có nguy cơ gây hại cho bà bầu và bé. Tuy nhiên, đến hiện này thì chưa hề có bằng chứng xác thực nào về mối nguy hại của siêu âm cả. Siêu âm là phương pháp không xâm lấn vào cơ thể. Siêu âm cũng không phải quá trình phẫu thuật vì không có mổ xẻ gì qua da cả. Siêu âm cũng không dùng tia như chụp X-ray nên nó hầu như là an toàn với thai kì.
Hiện nay, siêu âm được phát triển và quản lý tốt, đội ngũ nhân viên huấn luyện chuyên nghiệp. Siêu âm trở nên quá thông dụng đến nỗi nếu nó có gây nguy hại nào thì sẽ ngay lập tức được nghiên cứu ngay.

Tại sao bạn cần siêu âm trong thai kì?

Có nhiều nguyên nhân để siêu âm trong thai kì nhưng thông dụng nhất là:
  • Xác định có thai.
  • Xác định tuổi thai.
  • Kiểm tra sự tăng trưởng và phát triển của thai.
  • Xác định số thai trong tử cung.
  • Xác định vị trí của nhau thai.
  • Đánh giá nguy cơ hội chứng Down (tuần 11-13).
  • Đánh giá các nguy cơ khác như tật khuyết thần kinh chẳng hạn.
  • Xác định giới tính (tuần 20).
  • Xác định biến chứng thai kì trong trường hợp có chảy máu âm đạo, bà bầu đau bụng hay thai giảm máy.
  • Phát hiện thai ngoài tử cung thường gặp là thai phát triển trong vòi trứng.
  • Hướng dẫn để chọc nước ối làm xét nghiệm. Nhằm đảm bảo kim không đâm trúng thai nhi.
  • Kiểm tra u xơ tử cung hay u buồng trứng.

Bạn có thể siêu âm ở đâu?

Đa số các phòng khám thai hay phòng xét nghiệm đều có dịch vụ siêu âm.
Quá trình siêu âm thường khoảng 30 phút. Nếu bạn hẹn trước cho siêu âm đầu dò âm đạo và sau đó cần làm thêm siêu bụng thì có thể kéo dài 1 tiếng. Bạn không nên nóng vội vì đây là lúc bạn được nhìn thấy bé mà.

Khi nào thì bạn nhận được kết quả siêu âm?

Bạn sẽ thấy được hình ảnh thai nhi cùng lúc với khi bác sĩ làm siêu âm cho bạn. Bạn sẽ thấy được nhiều mặt cắt khác nhau cho hình ảnh của bé. Nhiều phòng khám còn lắp hẳn màn hình riêng và lớn cho các bà bầu xem cho dễ.
Nếu có gì không rõ ràng trong lúc siêu âm, bác sĩ siêu âm có thể nhờ thêm bác sĩ khác xem kết quả và cho ý kiến. Và như vậy thì bạn sẽ phải chờ đợi kết quả lâu hơn. Việc này có thể khiến bạn lo lắng. Nhưng đôi khi để xác định là bình thường thì cần chắc chắn nhiều yếu tố.
Kết quả sau đó có thể được gửi thẳng đến bác sĩ sản khoa của bạn theo yêu cầu. Và bác sĩ sẽ là người thông báo kết quả siêu âm cho bạn. Dĩ nhiên, bác sĩ sẽ giải thích nếu có biến chứng nào phát hiện qua siêu âm.

Ai sẽ làm siêu âm cho bạn?

Siêu âm thường do các kỹ thuật viên chẩn đoán hình ảnh chuyên về siêu âm làm. Họ được huấn luyện về cách siêu âm, nguy cơ và cả cách đọc kết quả. Nếu có gì không rõ, kết quả sẽ được bác sĩ chuyên về chẩn đoán hình ảnh kiểm tra lại.

Bạn cần chuẩn bị gì trước khi siêu âm?

Trong trường hợp siêu âm ở tam cá nguyệt đầu tiên, bạn sẽ cần uống nước và giữ bàng quang căng đầy. Phòng siêu âm nơi bạn chọn sẽ hướng dẫn bạn kỹ hơn, như là uống 750ml-1 lít nước trong 1 tiếng trước khi siêu âm và cố gắng không đi tiểu cho tới khi siêu âm xong. Bàng quang đầy sẽ giúp đẩy tử cung lên cao gần xương mu hơn và sẽ dễ quan sát hơn.
Trong tam cá nguyệt thứ hai hoặc khi siêu âm tầm soát, bà bầu nên uống khoảng 2 ly nước trong vòng 1 tiếng trước khi siêu âm. Cũng có trường hợp cần uống thuốc trước khi siêu âm, nếu có thì bác sĩ sẽ kê toa và hướng dẫn bạn trước.
Mặc dù siêu âm không gây đau nhưng vẫn có thể làm bạn khó chịu vì tức bàng quang chẳng hạn. Lúc người làm siêu âm ấn đầu dò trên bụng bạn, bạn cũng có thể rất khó chịu dù thời gian ngắn thôi. Trường hợp bạn chịu không nổi thì nên thông báo với người làm siêu âm  và bạn có thể tiểu bớt cho dễ chịu, cũng như người làm siêu âm sẽ xoay chuyển đầu dò sao cho bạn thoải mái hơn.
Bạn có thể bị yêu cầu nín thở trong thời gian rất ngắn khi siêu âm để có được hình ảnh rõ nét hơn chẳng hạn. Quá trình hít thở có thể ảnh hưởng độ sắc nét của hình siêu âm.

Liệu bạn có thể biết giới tính của thai?

Dĩ nhiên bạn có thể biết. Tuy nhiên trong trường hợp bé nằm tư thế gây khó quan sát thì người siêu âm cũng khó xác định. Thông thường lúc 20 tuần tuổi là lúc dễ xác định giới tính của thai nhi. Bạn cũng có thể giữ sự hào hứng cho đến khi sinh bằng cách chọn lựa không biết trước giới tính bé, khi đó bạn nên nói trước với người làm siêu âm cho bạn.
Bạn nên nhớ mục đích của siêu âm không phải chỉ để biết giới tính của bé. Quan trọng là theo dõi sự phát triển của bé trong tử cung và tầm soát biến chứng nếu có.Mang Thai -67-sieu Am Thai Ki -03(500x 500)

Siêu âm qua ngả âm đạo là gì?

Đây là cách siêu âm đưa trực tiếp đầu dò vào âm đạo để lấy hình ảnh trong tử cung. Nếu bạn phát hiện có thai ở giai đoạn rất sớm thì siêu âm qua bụng có thể chưa thấy được gì mà cần phải siêu âm qua ngả âm đạo.
Siêu âm qua ngả âm đạo không gây hại cho bà bầu lẫn thai nhi. Thời điểm cần siêu âm qua ngả âm đạo thường là 7 tuần, có khi đến tận 12 tuần vẫn cần.

Lưu ý

Siêu âm trong thai kì không cần thiết 100%. Và cũng không có nghĩa siêu âm phát hiện hết 100% các biến chứng. Kết quả siêu âm có thể sai tuỳ thuộc vào người siêu âm, máy móc. Sự thật là siêu âm không chính xác 100%. 

Thai kì và chuột rút

Triệu chứng chuột rút


Chuột rút trong thời kỳ đầu của quá trình mang thai là một hiện tượng tương đối phổ biến. Đối với hầu hết phụ nữ, chuột rút nhẹ không đáng phải bận tâm. Tuy nhiên, hiện tượng chuột rút có liên quan đến tử cung có thể là dấu hiệu của biến chứng thai kỳ. Do đó cần có sự kiểm tra định kỳ bởi các y bác sĩ hoặc nữ hộ sinh.
Những phụ nữ đã từng gặp khó khăn trong việc mang thai hay có tiền sử bị sẩy thai cần phải đặc biệt chú ý. Mang thai luôn là một sự kiện đáng nhớ. Vì vậy hãy luôn duy trì sức khỏe, giảm căng thẳng, khám thai định kỳ để giúp cho quá trình mang thai của bạn ngày càng trở nên thú vị.

Nguyên nhân gây chuột rút khi mang thai ở thời kỳ đầu thai kỳ

  • Khi tử cung mở rộng để tạo chỗ nằm cho em bé, các cơ và dây chằng nâng đỡ tử cung bị kéo căng. Điều này có thể gây các cơn đau nhức cho các bà bầu, đặc biệt trong ba tháng đầu tiên của thai kỳ. Các tĩnh mạch cung cấp máu cho tử cung cũng bị đè gây cảm giác nặng nề khó chịu. Thường thì chuột rút co cơ có thể cảm nhận ngay ở vùng bụng dưới.
  • Do u nang (Corpus Luteal) hình thành ngay trên buồng trứng và làm trứng rụng trước khi được thụ tinh. U nang này có chức năng quan trọng là sản sinh đủ progesterone để nuôi dưỡng phôi thai trước khi nhau thai hình thành.

Tại sao bà bầu thường nổi mụn?

Bà bầu thường nổi mụn trong quá trình mang thai và việc này hoàn toàn không có mối liên hệ nào với hiện tượng chuột rút. Nguyên nhân là do phôi thai đào sâu vào thành của tử cung. Điều này giải thích vì sao phụ nữ thường nổi mụn khi đến chu kỳ kinh nguyệt. Những ngày đầu kỳ kinh thường xuất huyết nhiều và liên tục, đi kèm các cơn đau. Sau vài ngày các nốt mụn sẽ mất dần đi.
Ở một số phụ nữ, tử cung không nằm đúng vị trí trong khung xương chậu. Thay vì nằm nghiêng ra phía trước và ngay trên bàng quang, nó lại hướng vào phía trong. Khi tử cung lớn dần thì nó sẽ càng nghiêng vào phía trong hơn, tạo thêm áp lực lên các dây chằng và dây thần kinh.

Cảm giác khi bị chuột rút:

Chuột rút nhẹ sẽ có cảm giác giống như cơn đau trong thời kỳ kinh nguyệt, khi tử cung co bóp tạo cảm giác co giật, nặng nề trong khung xương chậu. Chuột rút cũng có thể bị gây ra do việc đứng một chỗ quá lâu. Khi bạn hắt hơi, ho, hay cười lớn dẫn đến áp lực trong bụng tăng lên đột ngột cũng gây ra chuột rút. Một số cảm giác khi bị chuột rút là nặng nề, khó chịu, đau nhói…
Các y bác sĩ thường căn cứ vào các cơn chuột rút ở thời kỳ đầu mang thai như là một dấu hiệu nhận biết sự tăng kích thước của tử cung. Mặc dù sự phát triển của thai nhi trong ba tháng đầu là tương đối chậm, nhưng sự thay đổi nội tiết tố và lượng máu trong vùng xương chậu của mẹ là rất lớn.
Những thay đổi này diễn ra để chuẩn bị cho những tháng tiếp theo. Tử cung là một cơ quan tương đối nhỏ được tạo thành từ các sợi cơ có khả năng co giãn. Khi tử cung tăng kích thước, đi kèm luôn gây ra sự khó chịu cho bà bầu trong đó có hiện tượng chuột rút. Nắm rõ nguyên nhân và hiểu biết về hiện tượng này sẽ giúp ích cho việc chăm sóc cả bà mẹ và thai nhi.

Nên kiểm tra khi nào?

  • Khi quá lo lắng và cần kiểm tra để yên tâm.
  • Khi xuất huyết kinh nguyệt hay nổi mụn không ngừng và ngày càng tăng lên.
  • Đau mạnh ở bụng hay trên đỉnh vai.
  • Nhiệt độ cơ thể tăng cao và cảm thấy không khỏe.
  • Gặp vấn đề khi tiểu tiện.
  • Khi không có các dấu hiệu điển hình của việc mang thai.

Nên chú ý:

Mặc dù hiện tượng chuột rút hoàn toàn bình thường, nhưng cũng có khả năng đó là dấu hiệu sớm báo hiệu nguy cơ sẩy thai. Trong vài trường hợp, khi các dấu hiệu này đã rõ ràng thì khả năng sẩy thai là rất cao. Ước tính trong 4 ca mang thai có hiện tượng chuột rút thì có một ca bị sẩy. Nguyên nhân có thể do sự đột biến nhiễm sắc thể, hoặc do trứng thụ tinh không nằm đúng trong tử cung mà lại nằm ở đâu đó trong khung xương chậu. Ống dẫn trứng nhỏ và không co giãn như tử cung, do đó chỉ chứa được các trứng nhỏ. Vì vậy có trường hợp các trứng to bị rơi ra ngoài gây nên hiện tượng mang thai ngoài tử cung.

Hiện tượng thai ngoài tử cung

Đây là một trường hợp nghiêm trọng và có khả năng dẫn đến tử vong. Các phôi thai phải nhanh chóng được loại bỏ cùng với một phần hoặc nguyên ống dẫn trứng. Đôi khi ống dẫn trứng đứt trước khi được phẫu thuật, dẫn đến các biến chứng như sốc, xuất huyết hay nhiễm trùng. Phụ nữ từng có tiền sử phẫu thuật trên một hoặc cả hai ống dẫn trứng sẽ gặp khó khăn khi thụ thai. Do đó, mục tiêu quan trọng của phẫu thuật là giữ lại càng nhiều càng tốt phần ống dẫn khỏe mạnh đồng thời không gây ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ. Đây chính là lý do vì sao cần có sự quan tâm đặc biệt của các chuyên gia ngay khi bắt đầu nghi ngờ có hiện tượng thai ngoài tử cung.Mang Thai -57-trieu Chung Chuot Rut -02(500x 500)

Triệu chứng thai ngoài tử cung:

  • Đau bụng dữ dội và không có dấu hiệu thuyên giảm.
  • Xuất huyệt âm đạo và nổi mụn.
  • Bụng sưng to, chướng và đầy hơi.
  • Đau phần đầu của vai hoặc lan tỏa đến vai. Đây là dấu hiệu của máu tụ nhiều ở bụng và bên dưới cơ hoành.
  • Đau ở phần dưới của lưng.
  • Chóng mặt, hoa mắt.

Các nguyên nhân khác gây chuột rút khi mang thai:

  • Viêm ruột thừa.
  • Sỏi thận hoặc nhiễm trùng bàng quang.
  • Chứng ợ hay khó tiêu.
  • Nhiễm trùng đường dẫn nước tiểu hoặc nhiễm trùng thận.
  • Viêm tụy.
  • Táo bón.
  • Đau dây chằng tròn, thỉnh thoảng đau nhói phía trong bụng.
  • Quan hệ tình dục làm các tĩnh mạch của xương chậu bị căng và tổn thương. Cực khoái làm cho tử cung co bóp trong một khoảng thời gian ngắn gây khó chịu ở bà bầu.

Khi nào hết chuột rút?

Cho đến khi tử cung tăng kích thước và được nâng đỡ bởi các xương trong khung xương chậu thì hiện tượng chuột rút sẽ giảm bớt. Lúc này, các dây chằng và cơ phần nào được giải thoát khỏi nhiệm vụ nâng đỡ tử cung.

Làm giảm nguy cơ chuột rút khi mang thai bằng cách nào?

  • Thay đổi tư thế đứng, ngồi, nằm thường xuyên. Vận động nhẹ bằng cách đi bộ hoặc kéo căng cơ bắp mỗi ngày.
  • Tắm nước ấm, mặc quần áo rộng, thoải mái, xoa bóp nhẹ nhàng vùng bụng.
  • Nên đi tiểu tiện thường xuyên để tránh việc bàng quang bị căng đầy gây co thắt tử cung.
  • Uống nhiều nước, ăn nhiều trái cây tươi và các loại rau để tránh bị táo bón. Không nên ăn nhiều bánh mì, gạo và mì ý.
  • Ngồi hoặc nằm thư giãn và tập các bài hít thở sâu.
  • Khi ngồi nên đảm bảo chân có kệ đỡ để máu có thể dễ dàng lưu thông.
Chú ý: bất cứ khi nào bạn cảm nhận được hiện tượng chuột rút trong kỳ đầu mang thai, hãy đến ngay các trung tâm y tế có kinh nghiệm để có thể được kiểm tra kỹ lưỡng.

Ra máu trước chu kì kinh

Ra máu trước kỳ kinh


Máu báo là hiện tượng chảy máu âm đạo thành vệt xảy ra trước kỳ kinh. Máu báo xuất hiện phổ biến giữa chu kỳ kinh nguyệt. Có nhiều lý do gây ra máu báo nhưng lý do hay gặp nhất là do sự thay đổi nội tiết tố. Máu báo xuất hiện khi phôi thai hình thành trên niêm mạc tử cung.

Nguyên nhân xuất hiện máu báo

  • Cấy phôi.
  • Sau giao hợp (sau khi quan hệ tình dục). Trong thời kỳ mang thai sớm, các mạch máu ở cổ tử cung bị căng, giao hợp làm cho nó bị kích thích và chảy máu.
  • Sẩy thai. Máu báo có thể xảy ra rất sớm trong thai kỳ, trước khi một người phụ nữ nhận ra mình mang thai.
  • Có thai ngoài tử cung.
  • Có thể làm xảy ra hiện tượng chảy máu khi dừng sử dụng một số hình thức tránh thai như thuốc tránh thai, vòng tránh thai, miếng đặt tránh thai và các điều trị nội tiết tố.
  • Sự rụng trứng - còn được gọi là máu báo rụng trứng. Điều này là bình thường đối với một số phụ nữ đã có kinh nghiệm có máu báo mỗi tháng cùng một lúc rụng trứng.
  • Sự mất cân bằng nội tiết tố chung do tuyến giáp hoặc buồng trứng có vấn đề, cũng như bệnh tiểu đường.
  • Do tác dụng phụ thuốc. Máu báo thường xuất hiện ở những phụ nữ đang dùng thuốc chống trầm cảm và thuốc chống viêm.
  • Dùng một số loại thuốc làm loãng máu như heparin, warfarin hoặc aspirin.
  • Nhiễm trùng âm đạo, tử cung hoặc cổ tử cung.
  • Máu báo là do hiện tượng nghiêm trọng hơn như ung thư tử cung, buồng trứng hoặc cổ tử cung; lạc nội mạc tử, polyp, u xơ tử cung hoặc bị tổn thương Trường hợp này hiếm gặp hơn.
  • Hội chứng buồng trứng đa nang (POS).
  • Sau khi làm kiểm tra âm đạo ví dụ như xét nghiệm Pap smear.
  • Cơ thể liên tục căng thẳng. Điều này có thể ảnh hưởng đến tất cả các hệ thống cơ thể và máu báo là một trong những triệu chứng mơ hồ nhưng rất thực tế của sự mất cân bằng cơ thể.

Nguyên nhân xuất hiện máu báo?

Máu báo có thể xảy ra một tuần hoặc thậm chí một vài ngày trước kỳ kinh. Khi điều này xảy ra đối với người phụ nữ không sử dụng biện pháp tránh thai, có nhiều khả năng rằng đó là do sự chảy máu báo chứ không phải là máu kinh. Nhiều phụ nữ giải thích máu báo như một sự xuất hiện sớm kỳ kinh nguyệt và không nghĩ là mình có thai.
Máu báo khác với máu kinh nguyệt vì nó chảy máu ít hơn và thường xuất hiện như một vệt màu hồng hoặc màu nâu chứ không phải là một dòng máu. Nó không tăng lên nhiều về lượng và không xuất hiện các cục máu đông. Khi có máu báo người phụ nữ không cảm thấy đau lưng hoặc co thắt tử cung. Thông thường, máu báo xảy ra khoảng 11-12 ngày sau khi thụ thai.
Tuy nhiên, trong 4-5 ngày tiếp theo, máu báo có thể có cục máu đông, có hiện tượng co thắt tử cung và tăng về lượng trước khi nó giảm đi và dừng lại hoàn toàn. Nó xuất hiện thỉnh thoảng, rải rác và thường hết sau một hoặc hai ngày.

Nhưng trước đó tôi chưa bao giờ có máu báo!

Đối với phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, máu báo có thể tạo ra sự nhầm lẫn và lo lắng. Sự xuất hiện của máu báo làm bạn quan tâm, lo lắng. Quan trọng là máu báo không nên bị bỏ qua mà phải được kiểm tra bởi bác sĩ hoặc chuyên gia về chăm sóc sức khỏe. Việc xét nghiệm là rất quan trọng để có thể xác định chắc chắn.
Thuthai -raumatruockikinh
Bạn có thể nhầm lẫn về nguyên nhân gây ra hiện tượng máu báo. Nhiễm trùng đường tiểu có thể gây tiểu ra máu và điều này có thể là nguyên nhân máu xuất hiện trên giấy vệ sinh. Ở những phụ nữ có bệnh trĩ hay chảy máu có nguồn gốc từ ruột hoặc trực tràng cũng có thể gây chảy máu bên trong và bên ngoài. Sử dụng băng vệ sinh để giúp bạn chắc chắn máu chảy từ âm đạo. Một kiểm tra y tế cũng sẽ giúp bạn xác định nguồn gốc của máu.

Làm thế nào biết là máu báo xuất hiện trước kỳ kinh?

Người ta ước tính có khoảng 25-30% phụ nữ mang thai sẽ có máu báo hoặc chảy máu âm đạo ở đầu thai kỳ của họ. Đôi khi điều này là do sẩy thai. Trong giai đoạn đầu của máu báo, chờ đợi và tiếp cận là khuyến cáo của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Một số phụ nữ sẽ bị sẩy thai tự phát còn những người khác thì không.
Tỷ lệ sẩy thai là một trong bốn người mang thai, thực tế là ba trong số bốn lần mang thai sẽ dẫn đến sự ra đời của một em bé sống và khỏe mạnh.
Tùy thuộc vào chu kỳ của từng phụ nữ, các thay đổi nội tiết trong cơ thể, máu báo sẽ xuất hiện.

Sự khác biệt giữa máu báo và kinh nguyệt là gì?

Về cơ bản, máu báo và máu kinh nguyệt khác nhau về lượng. Mặc dù có thể rất dễ nhầm lẫn máu báo với máu kinh nguyệt, điều quan trọng cần biết là chúng khác nhau và được gây ra bởi những nguyên nhân khác nhau.
Máu báo có xu hướng bất thường, thành vệt và không nhiều về lượng như khi có kinh nguyệt. Bạn có thể thấy máu báo có màu mờ nhạt hoặc vệt nhầy. Một lượng nhỏ máu có thể xuất hiện, nhưng ở những lần khác thì không. Máu báo có thể được thấy rõ hơn khi thức dậy vào buổi sáng, sau khi giao hợp hoặc tập thể dục.
Bạn chỉ có thể biết có máu báo khi đi vệ sinh và sau khi lau. Bạn có thể thấy một chút máu màu nâu sậm hoặc nhuộm hồng đỏ tươi trên giấy vệ sinh. Ngoài ra cũng có thể thấy một chút máu trên đồ lót của bạn.
Không có quá nhiều máu để bạn phải sử dụng đến băng vệ sinh. Nhưng bạn có thể chọn để sử dụng một lớp lót quần tránh bị dây bẩn. Nếu bạn bị chảy máu nhiều nhưng vẫn không cần đến băng vệ sinh thì không phải máu báo mà là kinh nguyệt.
Nếu bạn có nhiều máu báo hoặc có vẻ là lặp lại nhiều lần, hãy ghi nhận bằng nhật ký. Điều này có thể giúp bạn biết được ngày và chu kỳ mà nó xảy ra. Nó sẽ giúp bạn mô tả được chính xác cho bác sĩ.

Sự khác biệt giữa máu báo và sẩy thai?

Nếu chảy máu âm đạo trở nên nặng hơn, có cục máu đông hoặc có sự thay đổi trong màu sắc của máu thì đây là không còn là máu báo. Đau lưng, co thắt tử cung và đau bụng dưới là dấu hiệu của sẩy thai. Đối với một số phụ nữ điều này có thể là dấu hiệu đầu tiên mang thai.
Kiểm tra sức khỏe là rất quan trọng ngay cả khi bạn không quá quan tâm đến bản thân mình. Siêu âm để thấy có một phôi thai và tim thai. Có thể thấy được qua siêu âm từ tuần 5 - 6 của thai kỳ.
Nếu xảy ra sảy thai, vẫn có một số sản phẩm thụ thai trong tử cung có thể gây nên nhiễm trùng và chảy máu liên tục. Nhiều phụ nữ cần phải đi nạo thai nếu họ bị “sẩy thai không hoàn toàn”.
Phụ nữ có nhóm máu Rh âm có thể cần phải tiêm kháng thể AntiD để ngăn chặn sảy thai trong lần mang thai tiếp theo.

Khi nào tôi nên có một xét nghiệm thai?

Các khuyến nghị chung là chờ đợi cho đến khi bạn qua thời kỳ kinh nguyệt để đảm bảo chính xác. Hàm lượng nội tiết tố được phát hiện trong các xét nghiệm thai bằng nước tiểu và máu, hCG, là cao nhất trong nước tiểu đầu tiên được lấy vào buổi sáng.
Tính chính xác của thử thai tại nhà hiện tại là rất cao, vì vậy bạn có thể không cần phải đợi cho đến buổi sáng nếu bạn không thể chờ được nữa. Nhưng lưu ý rằng sự kết hợp của việc vừa thụ thai và nước tiểu rất loãng có thể cho kết quả âm tính giả và bạn cần phải lặp lại các thử nghiệm khi kết quả là âm tính.
Kết quả âm tính cũng có thể do không sử dụng các bộ kiểm tra một cách chính xác: quá lâu hoặc không đủ thời gian khi xem kết quả xét nghiệm. Nó cũng có thể có nghĩa là bạn không mang thai. Nếu bạn vẫn cảm thấy mình có thể mang thai thì sau một tuần bạn có thể làm xét nghiệm thử thai khác.
Có thể có một kết quả mang thai âm tính giả nhưng không phải là dương tính giả. Các xét nghiệm thử thai có thể phát hiện được hCG hiện diện, ngay cả với nồng độ nhỏ.

Thai kì và không tương thích nhóm máu Rh

Nhóm máu không tương thích Rhesus (RH)


Yếu tố Rhesus (Rh) là một kháng nguyên hay protein đặc biệt trên bề mặt của các tế bào hồng huyết cầu. Đây là một cơ chế bảo vệ giúp cơ thể phân biệt máu của chính mình. Mỗi người đều được thừa hưởng các gen từ cha mẹ của mình để xác định nhóm máu, cũng như xu hướng có kháng nguyên này hay không.
 Trong máu của mỗi người đều có yếu tố Rh-dương hoặc Rh-âm. Các kháng nguyên D có mặt trong 85% dân số, nghĩa là phần lớn dân số có nhóm máu dương. Trong 15% còn lại, không có các kháng nguyên D, nghĩa là những người trong số này có nhóm máu âm. Vấn đề phát sinh khi một người mẹ có nhóm máu âm nhưng mang thai đứa con có nhóm máu dương. Bệnh Rhesus, còn gọi là bệnh tán huyết ở trẻ sơ sinh, là một biến chứng có thể xảy ra khi người mẹ sản xuất kháng thể chống lạicác tế bào hồng cầu có Rh-dương của em bé.
Bệnh Rhesus có thể được ngăn chặn khi người mẹ mang Rh-âm được tiêm một hợp chất đặc biệt gọi là kháng thể anti-D, trong vòng 72 giờ sau khi sinh em bé. Việc tiêm Anti-D cho người mẹ là đặc biệt quan trọng vì nếu không thì các em bé của người mẹ này trong tương lai có thể bị ảnh hưởng.

Điều gì xảy ra với em bé?

Nếu người mẹ có Rh-âm kết hợp với người cha cũng có Rh-âm thì khi thụ thai, em bé sẽ không có vấn đề gì. Em bé cũng sẽ có nhóm máu có Rh-âm nên không có việc sản xuất kháng thể. Tương tự, khi người mẹ có Rh-dương thụ thai một em bé với một người đàn ông có Rh-âm thì cũng không có vấn đề gì xảy ra.
Có một tin tốt là, bệnh Rhesus ở các nước phát triển là rất hiếm. Tiêu chuẩn quy định khám tiền sản cho các bà mẹ vào giai đoạn sớm của thai kỳ là kiểm tra nhóm máu. Nếu người mẹ có nhóm máu âm, điều này sẽ được ghi vào hồ sơ, và sau đó, vào khoảng tuần thứ 28 của thai kỳ, mẹ sẽ được xét nghiệm máu lại để xem đã có kháng thể hay chưa.

Các nhóm máu khác nhau

  • Có tất cả 4 nhóm máu: A, B, AB hoặc O
  • Yếu tố Rhesus được gắn thêm vào mỗi nhóm máu, ví dụ: người có nhóm máu A không có yếu tố Rh sẽ là (A-), người có nhóm máu B có yếu tố Rh thì là (B+).
Các gen được kết nối với nhau theo cặp. Những ông bố có nhóm máu dương có thể mang một gen dương và một gen âm. Vì dương chiếm ưu thế nên nhóm máu của những ông bố này được phân loại là dương. Con cái của những người này sẽ có cơ hội tương đương 50:50 là dương hoặc âm. Nhưng nếu người bố có hai gen dương thì tất cả các con của ông sẽ là Rh-dương.

Bệnh Rhesus diễn ra như thế nào?

Khi người mẹ có Rh-âm tiếp xúc với máu của đứa con có Rh-dương, người mẹ có khả năng sẽ có phản ứng miễn dịch. Trong suốt thai kỳ khỏe mạnh bình thường, cho đến khi sinh, thông thường sẽ không có tình huống máu mẹ và máu con tiếp xúc hòa lẫn với nhau. Tuy nhiên, ngoài quá trình chuyển dạ sinh con, cũng có những lúc tình huống này có thể xảy ra.
Những bà mẹ có Rh-âm bị chảy máu âm đạo trong quá trình mang thai, hoặc những người đã từng đình chỉ thai vẫn có khả năng phơi nhiễm máu Rh-dương của thai nhi. Cũng giống như cách mà một người bị dị ứng với thức ăn nào đó có phản ứng chống lại thức ăn đó, ở đây, cơ thể của người mẹ sẽ phản ứng với các kháng nguyên lạđến từ máu của đứa con.
Khi đó cơ thể người mẹ sẽ sản xuất ra các kháng thể, gọi là kháng thể anti-D, để chống lại các tế bào hồng cầu mang Rh-dương của em bé xâm nhập vào các hệ thống của cơ thể mình. Nếu trong tương lai, người mẹ mang thai em bé tiếp theo có Rh-dương thì các kháng thể anti-D có sẵn này sẽ đi qua nhau thai và tấn công các tế bào hồng cầu của em bé gây ra bệnh tán huyết.

Điều trị bệnh tán huyết ở trẻ sơ sinh

Các em bé bị bệnh này sinh ra sẽ bị thiếu máu và vàng da,nghĩa là, chúng dự trữ sắt không đầy đủ và có nồng độ bilirubin trong máu cao. Những em bé này thường phảiđược truyền máu để giữ cho lượng dự trữ sắt ở mức bình thường. Những lượng máu nhỏ được đo lường cận thận của em bé sẽ được thay thế bằng máu hiến của một người khỏe mạnh. Đây là một việc cần phải được chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Việc này sẽ giúp loại bỏ các kháng thể anti-D, và các tế bào hồng cầu mới sẽ có thể hoạt động như bình thường.

Điều gì có thể xảy ra?

Trẻ sơ sinh bị bệnh tán huyết cũng có thể cần điều trị bằng đèn chiếu và giám sát chặt chẽ nồng độ sắt và bilirubin trong máu. Nếu em bé bị bệnh tán huyết nặng, nó có thể gây sẩy thai hoặc em bé bị chết lưu. Lượng bilirubin cao có thể vượt qua máu di chuyển đến não và gây tổn thương não.Mang Thai -95-nhom Mau Khong Tuong Thich Rherus -02(500x 500)

Tiêm Anti-D là như thế nào?

Các bà mẹ có Rh-âm sẽ được tiêm kháng thể anti-D trong vòng 72 giờ sau khi sinh em bé. Nó sẽ giúp ngăn cản cơ thể người mẹ sản xuất kháng thể kháng Rh-dương có khả năng gây ra các vấn đề cho những lần mang thai tiếp theo. Mặc dù vậy, với các bà mẹ có Rh-Âm thì việc xét nghiệm máu để xác định mức độ kháng thể anti-D sẽ được thực hiện định kỳ trong suốt các thai kỳ tiếp theo.

Phụ nữ có Rh-âm nên được tiêm Anti-D khi

  • Bị sẩy thai
  • Chấm dứt thai kỳ
  • Có chấn thương hoặc chảy máu
  • Trong quá trình chọc ối
  • Có chấn thương bụng
  • Sau khi có thai ngoài tử cung

Cần nhớ

Cho dù bạn có thể thuộc nhóm máu Rh-âm tính, việc thăm khám tiền sản đều đặn và đúng cách sẽ giúp phát hiện sớm các vấn đề tiềm ẩn có thể nảy sinh.

Thai kì và không tương thích nhóm máu ABO

Nhóm máu không tương thích ABO


Không tương thích ABO là một tình trạng có thể xảy ra trong thai kỳ. Về cơ bản, nó là một phản ứng miễn dịch xảy ra khi em bé có nhóm máu hệ ABO khác với nhóm máu của mẹ và do đó bị ảnh hưởng bởi các kháng thể do người mẹ sản xuất ra. Điều này nằm ngoài sự kiểm soát của người mẹ, vì nhóm máu là một phần bản chất tự nhiên của mỗi người. Các em bé có ABO không tương thích cần phải được theo dõi chặt chẽ, mặc dù nếu được điều trị hiệu quả thì chúng cũng đáp ứng rất tốt và không có ảnh hưởng về lâu dài đến sức khỏe.

Vậy nó là gì?

Các nhóm máu khác nhau thì không tương thích với nhau, và khi  trộn lẫn với nhau thì có thể phát sinh các biến chứng. Các nhóm máu khác nhau là do các phân tử nhỏ trên bề mặt của các tế bào máu khác nhau. Ở mỗi người đều có sự kết hợp của hai phân tử bề mặt mang tính chất riêng biệt của mình. Nhóm máu O không chứa bất kỳ phân tử bề mặt nào trong khi các nhóm máu khác thì có.
Khi có sự pha trộn của các nhóm máu khác nhau, hệ thống miễn dịch được kích hoạt và các kháng nguyên được sản xuất. Những kháng nguyên đó có thể làm phát sinh các vấn đề cho em bé.
Kiểm tra vấn đề tương thích máu là một trong những lý do vì sao việc xét nghiệm và xác định nhóm máu là rất quan trọng ở giai đoạn sớm của thai kỳ. Tương tự như vậy,trước khi hiến và nhận máu cũng như các cơ quan nội tạng, việc xác định nhóm máu tương thích sẽ giúp làm giảm khả năng phát sinh vấn đề. Lý do là vì, tình trạng không tương thích nhóm máu sẽ dẫn đến những phản ứng tương tự như phản ứng miễn dịch với mức độ nhạy cảm cao.

Các nhóm máu chính thường xảy ra hiện tượng không tương thích ABO là:

  • Ở thai nhi có nhóm máu A, B, hoặc AB.
  • Ở bà mẹ có nhóm máu O.
Trẻ thừa hưởng nhóm máu từ cha mẹ, nhưng điều này không có nghĩa là em bé sẽ luôn luôn có cùng nhóm máu với người mẹ; người cha cũng đóng một vai trò quan trọng không kém. Nếu một em bé có nhóm máu O, hoặc em bé và mẹ có cùng nhóm máu, nói chung sẽ không có vấn đề gì xảy ra.Mang Thia -98-nhom Mau Khong Tuong Thich ABO-02(500x 500)

Nhưng không phải máu của bà mẹ và em bé được giữ tách riêng ra sao?

Người mẹ có nhóm máu O sẽ sản sinh ra các kháng thể chống lại các nhóm máu A và B, nhưng những kháng thể này quá lớn nên không thể vượt qua nhau thai được. Thông thường, trong suốt quá trình mang thai thì máu của người mẹ và em bé không thể pha trộn lẫn nhau. Chúng được giữ riêng biệt với nhau bởi màng nhau thai. Màng này như một bức tường chắn mà oxy và chất dinh dưỡng có thể đi xuyên vào để nuôi dưỡng em bé, nhưng máu thì lại không thể vượt qua. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp phổ biến khi một vài tế bào máu của em bé di chuyển vào dòng máu của người mẹ. Đó là khi có trường hợp sẩy thai, trong lúc sinh, hoặc khi người mẹ bị một chấn thương nào đó.
Khi điều này xảy ra, các kháng thể nhỏ hơn gọi là Anti-A hay Anti-B có thể di chuyển ngược trở lại vào dòng máu của em bé. Kết quả là, chúng sẽ tấn công và tiêu diệt các tế bào hồng cầu của thai nhi. Những em bé bị ảnh hưởng theo cách này sẽ bị vàng da chẳng bao lâu sau khi sinh. Trường hợp này được gọi là bệnh tán huyết ở trẻ sơ sinh. Nếu lượng hồng huyết cầu quá thấp, bé có thể cần truyền máu để giúp nồng độ sắt trong máu trở lại đến mức độ bình thường. Cũng có khi cần phải thay máu. Việc này phải được thực hiện hết sức cẩn thận, những lượng máu nhỏ được đo lường kỹ lưỡng của em bé sẽ được loại bỏ và thay thế ngay lập tức bằng lượng máu hiến tặng cùng loại.
Tùy thuộc vào mức độ thiếu máu và/hoặc vàng da, em bé có thể cần phải được theo dõi và chăm sóc đặc biệt trong bệnh viện. Theo dõi và giám sát việc cho ăn, độ ẩm, lượng sắt, và mức độ vàng da chỉ được thực hiện tốt nhất ở nơi có đầy đủ đội ngũ chuyên gia y tế.

Các phương pháp điều trị

Các em bé mắc bệnh tán huyết có khuynh hướng bị vàng da rất nhanh sau khi sinh, với biểu hiện khá rõ ở da và mắt. Vàng da chính là kết quả của việc có quá nhiều bilirubin trong máu. Những em bé bị vàng da thường trông tái xám, hoặc có da giống như màu ôliu, cho dù về mặt di truyền thì chúng thuộc chủng người da trắng (Caucasian).

Làm thế nào để đo mức Bilirubin?

Xét nghiệm máu ở em bé thường được thực hiện bằng cách chích lấy máu từ gót chân, sau đó đưa vào phòng thí nghiệm để đo mức bilirubin. Nếu nó vượt ngưỡng an toàn thì cần bắt đầu điều trị bằng đèn chiếu, một phương tiện cung cấp sóng ánh sáng.Khi sóng ánh sáng được hấp thụ qua da thì bilirubin sẽ bị biến đổi và bài tiết ra ngoài theo nước tiểu và phân.

Em bé bị thừa Bilirubin được điều trị như thế nào?

Trẻ sơ sinh được điều trị bằng đèn chiếu thường có phân màu xanh lá cây và không đồng bộ. Điều này là bình thường, và nó là dấu hiệu cho thấy cơ thể bé đang đào thải bilirubin dư thừa. Một lựa chọn phổ biến khác thay thế cho đèn chiếu là sử dụng chăn Bili (Biliblanket). Loại chăn này sử dụng công nghệ sợi quang để cung cấp ánh sáng an toàn nhưng rất hiệu quả trực tiếp đến da bé. Chăn Bili có thể được sử dụng trong 24 giờ mỗi ngày, cho đến khi mực bilirubin đã giảm và các kháng thể của mẹ không còn trong máu của em bé. Việc điều trị này thường diễn ra vài ngày sau khi sinh.
Những em bé bị vàng da thường lúc nào cũng rất buồn ngủ. Đôi khi cần phải được đánh thức chúng để cho bú, và cứ phải liên tục lay để nhắc bú, đặc biệt là khi bé bú mẹ. Các em bé đang điều trị với đèn chiếu vẫn có thể được ôm ấp và cho bú mẹ. Tuy nhiên, nếu lượng bilirubin quá cao thì thời gian bé rời khỏi đèn chiếu có thể bị hạn chế.

Thai kì và sản giật

Chứng động kinh


Sản giật là tình trạng nghiêm trọng khi tiền sản giật trở nên mất kiểm soát. Ở các nước phát triển, tình trạng này hiếm gặp vì đa số các trường hợp tiền sản giật tiến triển đều được phát hiện trước khi chuyển thành sản giật. Tuy nhiên, thống kê vẫn cho thấy khoảng 1/2000– 3000 bà bầu có thể bị sản giật. Sản giật ít khi xảy ra trước tuần 20 của thai kì, đa số xuất hiện từ tuần 20 đến 31.
Sản giật được xem là trường hợp cấp cứu sản khoa vì sức khoẻ của mẹ và bé đều có thể bị ảnh hưởng. Sản giật có thể đe doạ tính mạng nên cần đến bệnh viện chuyên khoa ngay lập tức để có sự chăm sóc đặc biệt.

Triệu chứng của Sản giật

  • Tăng huyết áp.
  • Hôn mê hoặc co giật là dấu hiệu điển hình của sản giật.
  • Co giật xảy ra mà trước đó không có tiền sử bệnh lý ở não như động kinh chẳng hạn.
  • Suy thận.
  • Suy thai (giảm nhịp tim thai).
  • Tiểu cầu thấp.
  • Kích động và cử động không ngừng.
  • Đau nhức cơ.
Có những bà bầu có dấu hiệu của sản giật mà không hề bị tiền sản giật trước đó. Thậm chí một số trường hợp sau khi em bé sinh ra rồi, bà mẹ có thể bị co giật sau sinh. Do đó, nên theo dõi sát và dùng thuốc chống co giật nếu cần.

Sản giật xảy ra như thế nào?

Trong sản giật, mạch máu sẽ bị co thắt lại, không thể vận chuyển oxy và chất dinh dưỡng đến các cơ quan và đến thai nhi. Các cơ quan sinh tồn như gan, thận và não phải chấp nhận giảm lưu lượng máu và không thể hoạt động hiệu quả được. Co giật thường xảy ra vì não bị thiếu oxy.

Yếu tố nguy cơ phát triển sản giật

  • Thường gặp ở bà bầu trẻ tuổi hoặc lớn hơn 35 tuổi.
  • Mang thai con đầu lòng.
  • Bà bầu có điều kiện kinh tế xã hội thấp, thiếu dinh dưỡng, thiếu điều kiện chăm sóc sức khoẻ (khó phát hiện sớm tiền sản giật).
  • Di truyền cũng là yếu tố nguy cơ dù hiểu biết về nó chưa rõ ràng.
  • Cấu trúc và chức năng của hệ thần kinh và não đặc biệt(gặp ở một số bà bầu dù chưa có bằng chứng rõ ràng).
  • Chế độ ăn của mẹ; thiếu dinh dưỡng.
  • Gốc người Mỹ Phi.
  • Thai kì có biến chứng như tăng huyết áp, đái tháo đường, hoặc các bất ổn khác.
  • Mang đa thai.

Dấu hiệu cảnh báo tiền sản giật phát triển

  • Thị giác bất thường như nhìn mờ hoặc thấy chớp sáng.
  • Tăng huyết áp.
  • Xét nghiệm máu bất thường.
  • Đau đầu không trị được.

Điều trị sản giật

Nguyên tắc điều trị chính của sản giật là phòng ngừa từ đầu. Theo dõi khám thai định kì giúp phát hiện và chẩn đoán sớm. Kiểm tra đạm trong nước tiểu, theo dõi huyết áp, đặc biệt là huyết áp tâm trương hay huyết áp dưới, để ý tình trạng giữ nước trong cơ thể.
  • Nghỉ ngơi, thậm chí vệ sinh cá nhân tại giường.
  • Nhập viện nếu cần sau khi được chẩn đoán sản giật
  • Theo dõi tim thai và sự phát triển của thai. Làm biểu đồ tim thai– cơn gò (CTG). Siêu âm là công cụ hiệu quả để đánh giá sự phát triển của thai.
  • Theo dõi huyết áp của mẹ. Dùng thuốc hạ áp để đưa huyết áp về mức bình thường
  • Có thể dùng thuốc lợi tiểu để giảm phù và tránh tình trạng ứ nước trong cơ thể.
  • Có thể dùng thuốc chống co giật, thuốc thường dùng là Magnesium Sulphate (ma-giê sun-phát).
Trường hợp sản giật nặng thậm chí phải cố định bà bầu để chống co giật. Cho thở oxy và dùng thuốc chống co giật để tối ưu lượng oxy lên não và tới thai nhi. Chỉ định sinh mổ ngay lập tức kể cả bé chưa đủ trưởng thành.

Biến chứng của sản giật

  • Bong nhau thai là nguy cơ chính của tiền sản giật và sản giật.
  • Sinh non.
  • Rối loạn đông máu hay còn gọi là Đông máu nội mạch lan toả (DIC).
  • Trường hợp nặng, có thể đe doạ tính mạng mẹ và bé nhưng nếu theo dõi sát và chăm sóc đặc biệt thì tình huống này rất ít xảy ra.
Mục tiêu chung của điều trị sản giật là giảm nguy cơ gây hại đến mẹ và bé. Nếu có thể, giải pháp sinh mổ sẽ được trì hoãn đến lúc bé 32-34 tuần tuổi đối với sản giật nặng. Nếu nhẹ, thời điểm sinh thường được kéo tới 36 tuần hoặc hơn. Cân bằng giữa nguy hiểm cho mẹ và sự trưởng thành cho thai là yếu tố quan trọng nhất trong điều trị sản giật.
Lưu ý
Bạn nên khám thai định kì ngay cả khi bạn cảm thấy mình hoàn toàn khoẻ mạnh. Tiền sản giật và sản giật không phải lúc nào cũng phát hiện được thông qua đo huyết áp và xét nghiệm nước tiểu.

Tiền sản giật

Tiền sản giật


Tiền sản giật chỉ xảy ra ở thai kì của con người. Rối loạn này xuất hiện từ giữa tam cá nguyệt thứ 2 với tần suất khoảng 5-8% thai kì. Tiền sản giật có thể phát triển sớm hơn ở trường hợp nặng hoặc có thể chỉ là vấn đề nhỏ trong cả thai kì, thậm chí có khi chỉ xuất hiện sau khi sinh.

Tiền sản giật thường gặp ở phụ nữ sinh con đầu lòng. Một số nghiên cứu cho thấy tần suất gặp lên đến 10% nhưng là con số nào đi nữa thì đây cũng là vấn đề sản khoa nghiêm trọng trong thai kì. Do đó, các bà mẹ mang thai nên khám thai định kì để theo dõi có bị tiền sản giật không. Nếu không được điều trị, tiền sản giật có thể trở thành sản giật gây nhiều biến chứng nặng nề cho cả mẹ và con. 

Triệu chứng của Tiền sản giật

  • Tăng huyết áp.
  • Có đạm trong nước tiểu.
  • Phù – thường rõ ở bàn tay, chân và bàn chân.

Tiền sản giật xảy ra thế nào?

Trong các trường hợp nhẹ, tiền sản giật thường không ảnh hưởng mẹ và bé. Nhưng nếu lưu lượng máu giảm và ảnh hưởng chức năng nhau thai, bé sẽ tăng trưởng không tốt như bình thường nên bé sinh ra có thể bị nhẹ cân. Tình trạng giảm lượng oxy và dinh dưỡng có thể gây ảnh hưởng đến tình trạng tăng trưởng tổng thể của bé, vấn đề này gọi là Hạn chế tăng trưởng trong tử cung (IUGR).
Nếu mẹ bị tiền sản giật nặng, sẽ có nguy cơ bong nhau thai ở nơi mà nhau thai gắn kết với thành tử cung. Những trường hợp huyết áp quá cao có thể dẫn đến sinh non hoặc thậm chí tử vong thai.
Thời gian là vấn đề rất quan trọng với tiền sản giật. Phải cân bằng được sự tăng trưởng và điều kiện ra đời của bé với sức khoẻ của mẹ. Nguy cơ bé tử vong thường không do rối loạn của tiền sản giật mà lại do biến chứng của sinh non.Mang Thai -88-tien San Giat -02(500x 500)

Yếu tố nguy cơ dẫn đến tiền sản giật

  • Mang đa thai.
  • Mang thai con đầu lòng.
  • Bà bầu lớn tuổi (hơn 40 tuổi).
  • Có tiền sử tăng huyết áp trước đó (tăng huyết áp vô căn).
  • Bị đái tháo đường hoặc bệnh lý thận trước đó.
  • Thai kì trước đây bị tiền sản giật.
  • Tiền sản giật có vẻ liên quan đến di truyền và có tiền sử gia đình.
  • Bà bầu thiếu dinh dưỡng.
  • Bệnh lý răng miệng cũng được cho là có liên quan.
  • Thừa cân hoặc béo phì trong thai kì.

Tại sao tiền sản giật xảy ra

Thật ra người ta vẫn chưa biết chính xác tại sao tiền sản giật xảy ra. Mặc dù yếu tố nguy cơ có vẻ rõ ràng nhưng không thể hoàn toàn căn cứ vào đó. Ngoài ra sự đáp ứng viêm ở mẹ cũng có thể là vấn đề vì hệ thống miễn dịch của mẹ có thể sẽ phản ứng lại với em bé và nhau thai.

Điều trị tiền sản giật thế nào?

Tiền sản giật sẽ khỏi sau em bé chào đời. Nếu huyết áp bà bầu quá cao có thể ảnh hưởng sức khoẻ mẹ hay bé, sinh mổ sớm là giải pháp chọn lựa.  Nếu thai chưa đủ trưởng thành, mẹ sẽ được chỉ định dùng thêm steroid để thúc đẩy phổi thai nhi phát triển hơn. Thỉnh thoảng dùng thuốc điều trị tăng huyết áp cũng giúp kéo dài thời gian bé ở trong bụng mẹ càng lâu càng tốt.
Nếu huyết áp chỉ tăng nhẹ hoặc trung bình, bà bầu sẽ được kê toa uống các thuốc hạ áp và đo huyết áp mỗi ngày. Các bà bầu có thể tự đo huyết áp bằng các máy đo cầm tay tự động. Yếu tố chính trong kiểm soát tiền sản giật là theo dõi huyết áp bà bầu và nhịp tim của thai. Nghỉ ngơi trên giường và giảm hoạt động thể chất có thể giúp giảm huyết áp về mức bình thường. Luôn theo dõi sát để đảm bảo tiền sản giật không phát triển thành sản giật.

Khi nào huyết áp trở nên quá cao?

Theo định nghĩa, tăng huyết áp là khi huyết áp trên ở mức 140-159 và huyết áp dưới ở mức 90-109. Tăng huyết áp nặng là khi huyết áp trên cao hơn 160 và huyết áp dưới cao hơn 110.

Khi nào cần đến bác sĩ

Thỉnh thoảng, tiền sản giật có thể trở nên nguy hiểm và diễn ra trong thời gian rất nhanh, mặc dù ảnh hưởng của nó đôi khi không rõ ràng. Bạn nên đi khám nếu có các dấu hiệu sau:
  • Đột ngột phù tay, mặt hoặc chân làm bạn tăng cân vì cơ thể giữ nước.
  • Đau bụng vùng dạ dày và có vẻ như là khó tiêu. Đau có thể lan ra 2 bên xương sườn.
  • Đau đầu dữ dội không bớtsau khi nghỉ ngơi và dùng thuốc giảm đau.
  • Mờ mắt. Nhìn thấy chớp sáng là dấu hiệu cảnh báo.
  • Buồn nôn và nôn.
  • Cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực.
  • Cảm giác bất an cho bản thân hoặc cho bé.
  • Thay đổi thể tích nước tiểu so với bình thường.

Chuyện gì xảy ra sau khi sinh?

Nên tiếp tục theo dõi huyết áp sau khi sinh. Nếu huyết áp vẫn còn cao, bạn sẽ được kê toa dùng thuốc hằng ngày đến khi huyết áp trở về bình thường. Việc theo dõi thường xuyên rất quan trọng. Đa số huyết áp sẽ tự trở về bình thường sau khi sinh bé.
Một số bằng chứng cho thấy bà bầu bị tiền sản giật có nguy cơ mắc bệnh tim mạch về sau cao hơn. Do đó bạn nên giữ cân nặng vừa phải và lối sống tích cực để giúp giảm thiểu các nguy cơ sức khoẻ lâu dài.

Phòng ngừa tiền sản giật

Hiện tại vẫn chưa có biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Một số bà bầu uống aspirin mỗi ngày từ lúc thai được 14 tuần để phòng ngừa. Nhưng việc này chỉ có tác dụng ở một số người.
Ngoài ra cũng có bằng chứng cho rằng bổ sung thêm can-xi trong chế độ ăn có thể giúp phòng ngừa tiền sản giật.